TIN TỨC
icon bar

Những dòng thơ nặng tình xứ Nghệ

Người đăng: nguyenhung
Ngày đăng: 2023-02-02 11:50:24
mail facebook google pos stwis
1824 lượt xem

NGUYỄN HOÀNG HOA

Cầm tập thơ Lam Hồng 7, NXB Hội Nhà văn, 2022 của Hội thơ Nghệ Tĩnh tại TP HCM, tôi cảm nhận được sức nặng của tập thơ. Không chỉ đầy đặn với sự góp mặt của 32 tác giả, gần 190 trang in, mà còn chất chứa sức nặng từ chiều sâu trí tuệ, chất liệu hiện thực đến sự thăng hoa cảm xúc và hàm lượng yêu thương.

Điều dễ thấy, gần như mang tính đặc trưng là “chất Nghệ” của thi phẩm này. Các tác giả là người Nghệ - Tĩnh, nên tính cách ngay thẳng, rõ ràng, sự chính trực trong bày tỏ - dù lời thơ uyển chuyển hơn lời nói đời thường – vẫn là cách tiếp cận sự vật, hiện tượng, cách diễn giải văn chương dễ được cảm thông, chia sẻ.

Hãy nghe một lời tự bạch: “Thơ tôi câu chữ nôm na/ chân thành mộc mạc bao la nghĩa tình/ quê hương đất nước gia đình/ làm nên cốt cách của mình trong thơ” (Thơ tôi – Nguyễn Văn Thưởng).

Tâm tính như vậy nên hành xử với tuyên ngôn chính trực của tác giả này cũng là lẽ đương nhiên: “Đứng ra bảo vệ dân lành/ ngăn ngừa kẻ xấu lộng hành khắp nơi/… còn hơn cúi xuống mà đi/ đúng sai cũng mặc, thấy gì cũng im” (Những điều nghe thấy).


Nhà thơ Bùi Phan Thảo đọc bài viết tại buổi ra mắt Lam Hồng 7.

Chính xứ Nghệ là điển hình của miền Trung: “Nắng, đá cười răng rắc/ miệng sún răng/ toang hoác/ gió Lào lùa/ đắng chát/ Mưa/ miền Trung/ Ngân hà tụt dốc/ đất sặc nước/ chết chìm/ người dân miền Trung/ cưỡi nóc nhà/ phi nước kiệu/ trong đêm” (Miền Trung – Trần Quang Khánh). Những thi ảnh độc đáo, nhịp thơ mạnh mẽ, vừa cho thấy sự khắc nghiệt của thiên nhiên miền Trung vừa cho thấy người miền Trung vượt qua gian lao, kiên cường chống chọi với thiên tai đời này qua đời khác.

Tự nhận người quê mình có giọng nói khó nghe, song tác giả Hoa Ngọc Dung không giấu sự tự hào về căn tính của người Nghệ: “Hiếu khách, thủy chung – tiêu chí hàng đầu/ sự thật lòng, không bao giờ dối trá/ nói yêu là yêu, ghét là xúc đổ/ chẳng nhờ nhờ, nửa đục nửa trong” (Khô khan tiếng Nghệ đậm sâu tình người).

Bên cạnh đặc trưng đó tạo nên sự khác biệt của “chất Nghệ”, đây còn là một thi phẩm hay, quy tụ nhiều phong cách thơ, mỗi người một vẻ. Đã là thơ, thì chất thơ phải nổi trội, đậm đà. Cốt cách thi sĩ của nhiều nhà thơ thể hiện rất rõ. Nói chuyện nắng mưa trong yêu thương, nhung nhớ qua Nhắn người, nhà thơ Nguyên Hùng “thả” hai câu thơ thật hay: “Xứ nào đường trưa không nắng/ đâu mưa gột nhớ khỏi đầu” và dặn người ấy mở lòng để một mai khỏi hối tiếc: “Chờ khi hết thời e ngại/ gặp rồi có nhận ra nhau”. Mong sao hai người được gặp nhau, nhận ra nhau, dù có những cơn mưa cũng không gột khỏi đầu nỗi nhớ một người.

Ai cũng có một dòng sông để nhớ về khi cất bước xa quê, nhất là với dòng Lam trong tâm hồn người xứ Nghệ. Nhà thơ Nguyễn Vũ Quỳnh trong Sông Lam ngày trở về đã viết: “Những đứa con xa về quê đang hát/ quá nửa dòng đời một thời tắm mát/ nóng ngọn gió Lào bỏng rát cả ca dao”. Viết về ngọn gió Lào như thế là một sáng tạo trong ý tứ, ngôn từ. Còn trong Nơi bếp ngày xưa, Nguyễn Vũ Quỳnh trải lòng: “Nhà ta ấm tự nơi đây/ mẹ cha gom nhặt những ngày đói no”. Câu thơ đơn sơ mà nặng sâu. Gian bếp quê đã nuôi lớn bao phận người từ những chắt chiu, tảo tần của mẹ cha, ngỡ như khói còn làm cay mắt người.

Cũng nhiều người cảm tác về thơ của cha ông thời Lý – Trần, song nhà thơ Trần Quang Khánh mở ra không gian trong 4 câu lồng lộng:

Đọc câu thơ cũ ngàn năm tuổi/ thấy sóng dâng cao đến tận trời/ dưới đáy sông còn in vết dấu/ phận người đâu phải đám mây trôi” (Đêm đông đọc thơ Lý – Trần). Từ xanh thẳm trời cao đến thẳm sâu đáy sông, sóng dâng ngút ngàn, đáy sông còn in vết dấu của chiến tích và những phận người trong dòng chảy lịch sử. Trong không gian, thời gian ấy, cảm xúc của thi sĩ đem đến cho người đọc những xao động tâm hồn.

Cũng với con mắt thơ tinh tế, nhà thơ Bùi Thanh Minh viết về Đèo Ngang mềm mại lục bát và đầy chất thơ: “Đèo nằm thoai thoải ngắm trời/ gối đầu lên núi tìm lời cho thơ/ đèo dài như nỗi ước mơ/ nối rừng với biển nối thơ với người”. Cũng là lục bát, nhà thơ Phương Nguyễn kể kỷ niệm thiếu thời: “Thương mà không dám nói ra/ giờ đây thăm lại quê nhà đơn côi/… vẫn đây kỷ niệm ngày xưa/ thương em đứng khóc dưới mưa bắt đền” (Tắm mưa). Và nhà thơ Lê Thị Quế với hai câu kết bài Kỷ niệm trường xưa làm xao lòng người: “Qua hè… chợt đến mùa đông/ lòng ta quặn thắt người không thấy về”.

Tình yêu vẫn là một chủ đề muôn thuở, những dòng thơ trữ tình luôn làm trang thơ lúc dịu ngọt, tươi vui, lúc xót xa, đau buồn. Một đôi mắt ngày xưa trong thơ Trần Văn Thuyên:

Đôi mắt chém vào đá/ đá cũng vỡ làm đôi/ mắt chém vào hồn tôi/ để tôi thành ngơ dại/ thế rồi người đi mãi/ chuyến đò chiều sang ngang/… đôi ngực bờ sông ấy/ đốt hồn anh trong mưa” (Đôi mắt sông Cả). Một đôi mắt thôi mà ngơ ngẩn một đời người. Để đời trôi, sông trôi, không còn gặp nhau, nỗi nhớ cháy trong mưa bên bờ sông chiều muộn.

Câu chuyện một số thanh niên xung phong thời chống Mỹ, sau ngày đất nước thống nhất đã chọn cửa Phật, không còn là chuyện lạ, nhưng vào thơ Trần Văn Thuyên vẫn nghe một nỗi buồn man mác, nhà thơ đau mà người đọc cũng đau: “Phật đường hương khói bay lên/ nam mô đà Phật mắt nhìn xa xăm/ viếng chùa tưởng được tĩnh tâm/ ngờ đâu tim lại tím bầm nỗi đau” (Nỗi niềm).

Bên cạnh những câu thơ mang nặng ưu tư, Lam Hồng 7 cũng có nhiều câu thơ nhẹ nhõm, vừa lạ vừa quen, khiến người đọc thú vị:

Sen làm anh cứ ngẩn ngơ/ ngắm đài tròn trịa ngắm bờ vai ngoan/ ngoi lên từ phía bùn đen/ để cho từ lạ thành quen mấy hồi/ sen làm mết cả hồn tôi” (Sen hồng - Lâm Viên).

Người xứ Nghệ trọng lý, nặng tình, những tâm tư, ứng xử đời thường của người xứ Nghệ vào thơ lại cho thấy một góc nhìn khác, nhất là những chiêm nghiệm, từng trải của người thơ. Đó là Mẹ và vợ của nhà thơ Phố Giang, ba người trong căn hộ chung cư đô thị. Mẹ tằn tiện, chắt chiu; vợ hiện đại, thời trang. “Mẹ thường cầm tay tôi lắc lắc nỉ non/hãy lựa lời bảo vợ/ vợ thì sau những lần chạm cái nhìn của mẹ/ lặng thầm ngồi chấm nước mắt thở than/ cả hai chẳng ai sai/cả hai đều thương nhau/ nhưng nếp nghĩ trong mỗi cái đầu/ lại cách nhau nửa thế kỷ”.

Và nhà thơ Lương Tử Miên dành tất cả yêu thương cho người chị trong Chị tôi. Đoạn thơ mở đầu đầy lo âu, day dứt: “Nhận tin chị sắp đi xa/ bần thần ngồi giữa canh ba nặng nề/ soạn xong hành lý về quê/ đường xa ngàn dặm em về kịp không?”. Một đời người chị tảo tần, vất vả: “Đắng cay cứ lẫn vào trong ngọt bùi/ chẳng bao giờ thấy chị vui/gặp em chị vẫn nụ cười héo hon”… Rồi người chị đi vào cõi vĩnh hằng, trong khói hương bay, người đọc thấy đâu đó bóng dáng những người phụ nữ miền Trung lam lũ, quên mình vì người thân, sống là cho đi, không đòi hỏi gì cho bản thân mình…

Một bài thơ ngắn nhưng hàm súc, nhiều triết lý nhân sinh sâu sắc được nhà thơ Trần Kim Dung tỏ bày. Từ hiện tượng thiên nhiên đúc kết nhân quả, nhà thơ hỏi: “Giọt nước tu bao kiếp/ để thành hạt sương mai/ suối nguồn tu bao kiếp/ ra biển rộng sông dài/ đời người tu bao kiếp/ mới nên đức nên tài?”. Để rồi lại tiếp tục phân vân, lại câu hỏi để tự tìm câu trả lời: “Về nương nhờ cửa Phật/ học kinh mõ đêm ngày/ hay về làm hạt bụi/ náu mình nơi cỏ cây?” (Không đề).

Với người Hà Tĩnh, Hồng Lĩnh là một biểu tượng. Nên khi rừng Hồng Lĩnh bị hỏa hoạn bởi những kẻ phá rừng, nhà thơ Phạm Đình Phú viết nên những lời căm phẫn: “Đất trơ trụi vấn vành khăn trắng/ đá nghẹn ngào thổn thức tiễn đưa/ khóe mắt lòng dân bỏng rát nghẹn khô/ chỉ có “giặc nội xâm” – tàn phá núi rừng, lấp sông lấn biển – nhởn nhơ/…Hồng Lĩnh ơi/ ai cũng bồi hồi thương tiếc/ nỗi se thắt quặn đến nao lòng” (Bồi hồi thương tiếc).

Còn rất nhiều câu chuyện, nỗi niềm trong Lam Hồng 7 mà bài viết này không thể điểm hết, song đều để lại những phút giây lắng lòng. Đây là thi phẩm đáng đọc, để qua đó càng hiểu và yêu thêm về quê hương Nghệ - Tĩnh, cả đất và người.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Thơ Nguyễn Đức Hạnh, nỗi niềm thành mây trắng
Cánh buồm thao thức trân trọng giới thiệu bài viết của TS, nhà thơ, nhà phê bình Lê Thành Nghị - một bài viết công phu, giúp người đọc soi chiếu tập thơ Khát cháy từ nhiều chiều, để người đọc khám phá một “hiện thực khác” giàu thi vị.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 22: “Một truyện ngắn dở như thế thì cãi nhau làm cái gì?”
Với góc nhìn của một người giàu trải nghiệm nghệ thuật, đạo diễn Lê Hoàng đã viết một status “thẳng ruột ngựa” về Trăm Ngàn: không quanh co, không xoa dịu, không hề sợ đụng chạm.
Xem thêm
Hà Thanh Vân: “Tôi đã định không nói gì thêm…” – Nhưng ai cho tôi yên đâu!
“Tôi đã định không nói gì thêm…” – nhưng rồi, như một tật xấu khó bỏ, TS Hà Thanh Vân lại tiếp tục viết.
Xem thêm
Từ motif cũ đến thông điệp nhân văn mới – một góc nhìn chuyên môn và cảm xúc
Theo PGS.TS Nguyễn Đức Hạnh, từ motif cũ, cách kể cũ, Vũ Ngọc Thư vẫn mang đến một truyện ngắn tốt – nhờ biết giữ lại giá trị của những điều quen thuộc và gợi mở một cảm quan hiện đại về hậu chấn chiến tranh. Đặc biệt là cái nhìn đầy chia sẻ với người phụ nữ và trẻ em – những phận người thường bị khuất lấp sau vầng hào quang chiến thắng.
Xem thêm
Từ chuyện “Trăm ngàn” nghĩ về phê bình và giải thưởng văn chương
Bàn tròn Văn học xin giới thiệu hai góc nhìn từ nhà văn Nguyễn Quế và cử nhân Sử học, CCB Nguyễn Xuân Vượng – như thêm hai lát cắt cho tấm gương phản chiếu đời sống văn chương hôm nay.
Xem thêm
Phê bình cần lý trí và người viết cần lắm lòng nhân ái
Trong bài viết “Trăm Ngàn trước búa rìu dư luận” dưới đây, nhà văn Phan Thị Thu Loan không đứng về phe nào, chỉ chọn đứng về phía sự hiểu – và sẻ chia.
Xem thêm
Bàn tròn Văn học kỳ 15: Cuộc thi văn chương có bị “đánh cắp”?
Kỳ này trân trọng giới thiệu một số ý kiến tiêu biểu từ các nhà thơ, nhà văn – như một cách lan tỏa lòng yêu nghề, yêu sự thật và dám lên tiếng trước những điều bất minh:
Xem thêm
Minh bạch đến đâu là đủ? Và liệu chúng ta có đang đòi hỏi quá mức?
Mời bạn đọc cùng theo dõi bài viết của nhà văn Đặng Chương Ngạn — một tiếng nói tỉnh táo trong bão thông tin — và cùng Bàn tròn giữ vững tinh thần đối thoại xây dựng, công tâm, và văn minh.
Xem thêm
Đọc xong buồn... mà không hiểu vì sao tôi buồn
Một bài viết ngắn, không nặng lý luận, nhưng có sức truyền cảm – bởi nó được viết từ trải nghiệm, từ nhân cách và từ tình yêu thực sự với văn chương.
Xem thêm
Bàn tròn Văn học kỳ 12: Ai mê cứ mê, còn gã thì hổng mê truyện này!
Một bài viết dễ thương, đúng chất “báo bổ”, và cũng là một dư vị khác lạ góp vào mâm Bàn tròn lần này – nơi mà mỗi tiếng nói đều có giá trị khi được gửi gắm với tinh thần xây dựng và vì văn chương một cách chân thành.
Xem thêm
Bàn tròn Văn học kỳ 11: Rơi tõm vào vực thẳm…
Với tiêu đề gợi hình Rơi tõm vào vực thẳm…, bài viết không chỉ phản ánh nỗi hụt hẫng của người cầm bút, mà còn phơi bày sự sụp đổ âm thầm của niềm tin.
Xem thêm
Một góc nhìn có thể không thuận nhưng cần thiết
Bàn tròn Văn học kỳ 10 trở lại với một tiếng nói… không êm ái, thậm chí có phần khá gắt, nhưng đáng để đọc: TS. Hà Thanh Vân, người vẫn kiên trì với góc nhìn phân tích trên cơ sở một kiến văn đáng nể, và không né tránh các câu hỏi về chất lượng thực sự của một tác phẩm văn chương.
Xem thêm
Có nhất thiết phải “xài thuần Nam Bộ” thì mới gọi là truyện miền Tây?
Dưới góc nhìn của một người làm thơ nhưng không thiếu lý luận, bà đặt Trăm Ngàn vào những câu hỏi không dễ trả lời
Xem thêm
Một truyện ngắn trung bình với những tín hiệu tích cực đáng mong chờ
Kỳ 8 này, chúng tôi xin giới thiệu một bài viết khá công phu của tác giả SƠN HÀ – “một giáo viên dạy văn bình thường” đã nghỉ hưu, nhưng vẫn còn nặng lòng với văn chương và nghề dạy học.
Xem thêm
Truyện ngắn “Trăm Ngàn”: Kẻ khen người chê, nghĩa là văn chương còn sống!
Bàn tròn Văn học tuần này xin giới thiệu hai status - hai góc nhìn mới: một người khen ngợi chân thành, một người phản biện chi tiết và không ngại “nói thẳng”.
Xem thêm
Trăm ngàn… câu hỏi sau một truyện ngắn
Chuyên mục Bàn tròn Văn học kỳ này trân trọng giới thiệu những ý kiến chọn lọc từ những người làm công tác chữ nghĩa hoặc yêu chữ nghĩa để cùng góp phần “làm tròn” hơn nhiệm vụ của một cuộc đối thoại văn chương chân thành.
Xem thêm
"Nhà là nơi có tình thương”
Bài viết được chia sẻ trên Facebook cá nhân của nhà thơ Lê Gia Hoài.
Xem thêm