TIN TỨC
icon bar

Giới thiệu tập thơ “Gửi những yêu thương” | Kao Sơn

Người đăng: nguyenhung
Ngày đăng: 2022-05-30 18:30:42
mail facebook google pos stwis
3925 lượt xem

Đọc “Gửi những yêu thương” của Lương Tử Miên, NXB Hội Nhà văn, năm 2021.

KAO SƠN

Lương Tử Miên vốn là một người lính. Những năm đất nước còn chiến tranh ông đã từng có mặt trên hầu hết các chiến trường miền Nam khói lửa. Nhưng ông cũng là người yêu thơ, từng làm thơ ngay từ khi còn ở trong quân ngũ. Khi đất nước thống nhất, trở về cuộc sống đời thường, ông vẫn giữ được cho mình tình yêu đặc biệt dành cho Thơ. Năm 2015 Lương Tử Miên ra mắt độc giả yêu thơ tập thơ thứ 2: Mưa bay cuối mùa. Ở tập thơ này Lương Tử Miên chủ yếu nói về tình yêu với quê hương, với người thân và những nghiền ngẫm, những suy tư trước cuộc đời cùng những chiêm nghiệm về cõi Người. Và cho đến tận hôm nay, nghĩa là sau 6 năm mới lại có tập thứ 3: Gửi những yêu thương. Vẫn có những mảng dành cho yêu thương đời thường nhưng chỉ chiếm một phần nhỏ. Còn lại đa số là tập hợp, gom góp những bài thơ hay nhất của ông viết về đời lính.

Lương Tử Miên làm thơ chậm. Trong tư thế một người lính trong đoàn quân chiến thắng, trở về với cuộc sống đời thường khi tuổi đã xé chiều, cảm xúc trước mọi khía cạnh của cuộc sống vẫn còn đầy ắp nhưng biểu hiện thì đã khác. Mọi suy nghĩ đã trở nên sâu lắng hơn, trầm tĩnh hơn. Vẫn là Người lính làm Thơ, nhưng ông không tụng ca chiến thắng kiểu một chiều, không thi vị hóa nỗi đau và sự hy sinh.

Bằng cái nhìn và tấm lòng của một người yêu thơ và làm thơ thơ đích thực, ông đứng trong nhân quần để cảm và nhận. Ông nói về cái tôi, nhưng không phải cái Tôi bí hiểm, mịt mờ, phức tạp mà là cái tôi của Cộng đồng, mang trong tim trách nhiêm cộng đồng. Thơ Lương Tử Miên bây giờ giống như những con sóng, vẫn đi từ nơi phải đi, vẫn đến ở chỗ phải đến nhưng không ồn ã nổi trên mặt biển nữa mà lắng xuống thật sâu thành từng đợt sóng ngầm.

Một anh con nhà nghèo vừa chớm tuổi đôi mươi/Chưa kịp lớn đã bập vào chiếntrận/ Chữ nghĩa không quen bằng quen súng đạn / Viết thư cho người yêu bằngnắn nót i, tờ… là hình ảnh của tuổi xuân Lương Tử Miên cùng lớp trai trẻ những năm đất nước có chiến tranh. Cả 10 cô gái trẻ hy sinh ở Ngã ba Đồng Lộc trong đội Thanh niên xung phong Mười trái tim sáng trong như ngọc/ Chưa trọn một lầnyêu / Và tất cả chưa chồng/... Rồi hàng triệu những cô gái khác trên khắp các làng xóm tự mình Ba đảm đang làm thay mọi việc cho những người đàn ông yên lòng ra trận: Lặng thầm em - Đóa hoa cải ven sông/ Lặng thầm nở đợi người ra trận/ Bằng màu vàng quê kiểng, thủy chung… Chắc chắn không bao giờ, không bút mực nào có thể kể hết những hy sinh to lớn mà cả mấy thế hệ dân Việt đã trải qua trong giai đoạn chiến tranh chống Mỹ cứu nước khi ấy. Nhưng cũng giai đoạn ấy, người ta chỉ nói đến hy sinh, ít nói đến Được - Mất. Từ Được - Mất chỉ thực sự hiện diện khi chiến tranh kết thúc và người lính đã trở về.

Có thể nói những người lính trở về sau chiến tranh là những người có những tâm trạng phức tạp nhất. Khi chiến đấu ở chiến trường Chẳng ai toan tính gì về cuộc sống mai sau/ Sướng hay khổ nằm ngoài tầm suy nghĩ

Khi ấy với người lính, mọi thứ, lí tưởng, mục đích chiến đấu, kể cả cái chết cũng rõ ràng, minh bạch. Có một nguyên nhân rất quan trọng giúp người lính luôn đứng vững để vượt lên đó làhọ luôn thấy mình đứng trong đội ngũ, bên mình luôn có đồng đội, đồng chí Thấy chặng đường đi không đơn độc. Chuyện chia nhau ngụm nước cuối cùng trong chiến hào, chuyện lấy thân mình chắn đạn cho đồng đội là bình thường.

Nhưng Hòa bình thì lại khác. Những cánh rừng trụi lá đã lên xanh/ Những chết chóc hoang tàn qua chiến tranh/ Chỉ là những kỷ niệm đau buồn/ của một thời trận mạc. Hy vọng mở ra. Sự an bình sẽ là một bù đắp. Nhưng nhiều người không thể ngờ cuộc chiến hóa ra vẫn tiếp diễn. Kí ức và hậu quả của cuộc chiến cam go dai dẳng đã để lại những vết thương có khi còn đáng sợ hơn cái chết: Người chồng trở về, thay vì vòng tay của người vợ giang rộng đón là vòng khói nhang lạnh lẽo Làn khói bay ngập ngừng như muốn khóc… Rồi những đứa trẻ bị nhiễm chất độc da cam. Những cô gái quê sau bao năm chờ tin người ra trận một chiều bỗng hóa Vọng Phu. Người mẹ già lặng lẽ đi xa trong tuyệt vọng sau bao đêm mắt nhòa ngồi ngóng tin con trước màn hình tivi trong chương trình Đi tìm đồng đội…Tất cả những nỗi đau đó, nhiều người vẫn có thể lí giải bằng cách gán lỗi cho chiến tranh.

Nhưng còn có một thực tế nghiệt ngã khác. Chiến trường được thay bằng Thương trường. Ranh giới địch ta hóa ra vẫn tồn tại. Chỉ khác bộ mặt. Và những người lính vốn xưa là anh trai làng quen cầm cày đi sau con trâu, khi vào lính chỉ quen với tay súng bây giờ cay đắng nhận ra mình ít chữ lặng lẽ nối đoàn dài trước cổng các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp có vốn làm ăn với nước ngoài để chờ nộp đơn mong xin được làm một chân bảo vệ. Nhòe nhoẹt hào quang nhòe nhoẹt vàng son/Giữa bề bộn tình đời - anh thợ cày ngơ ngác/ Như người ngoài hành tinh - cứ luôn luôn đi lạc/ Lại bắt đầu từ bài học vỡ lòng thôi. Nỗi đau nói tiếp nỗi đau. Có một nỗi đau mà nhiều người lính không mấy người ngờ tới đó là tình đồng đội Lạc nhau trong chiến tranh / Nơi ngút ngàn xanh lá/ Khi dấu xưa dần rõ/ Lại lạc tronghòa bình. Cái “Chiến trường – Thương trường” đã làm cho lối sống thực dụng đang tràn ngập mọi hang cùng ngõ hẻm, lan và làm hoen ố đến cả những điềut hiêng liêng nhất. Đồng đội một thời đứa sống đứa hy sinh/ Đứa nghèo đói đứa tột cùng danh vọng/ Lớp con cháu phân thành hai cực sống/ Đứa con trời, đứa rách rưới lem nhem. Có lẽ đây là một nỗi đau khó lí giải nhất với người lính. Bóng tố iẩn sau mặt trái của tấm huân chương bắt đầu dần lộ diện. Hy vọng sau chiến tranh sẽ được thấy một xã hội mới với tất cả những tốt đẹp đã từng nghe, đã từng mơ: Công bằng, bình đẳng, bác ái có vẻ như đã khép. Cùng một xuất phát điểm giống nhau nhưng số phận mỗi người bây giờ theo “cơ chế” lại có gì đó giống như hạt thóc đã qua sàng sảy: Hạt gạo được nuông chiều và đánh bóng lên/ Thành mónhàng được chào mời định giá/ Tấm cám lui về trong âm thàm thật giả/ Trong cân đo khinh trọng của lòng người. Nhiều điều tốt đẹp đang dần tuột khỏi tầm tay với.

Mình đang đi trên chặng cuối đường gần/ Tháp thoáng biển chỉ đường: Cỗ máy thời gian xê dịch/ Nhiều bạn tôi không về đến đích/ Chỉ đi trên đoạn đường xa, rồi nằm lại chiến trường. Đã may mắn hơn bạn, nhưng cảm giác cô đơn lạc lõng bám riết. Nắm cơm vắt thấm máu thành Quảng Trị/ Ai ngờ đâu còn nghẹn đến bây giờ. Vâng, nhưng đó là nghẹn cho mình và cả cho người nằm xuống. Hai vết thương trong một con người/ Vết thương thịt da - vét thương cuộc đời/ Vãn daidẳng suốt những năm còn lại.

Kế đó là những hoang mang nghi ngờ giằng xé. Bỗng thấy luyến tiếc những ngày đã qua, ngày mà cùng đồng đội bước vào trận chiến với một trái tim sục sôi khát vọng hy sinh và hiến dâng. Ngày ấy biết chặng cuối con đường còn xa mà vẫn tin, vẫn yêu. Còn bây giờ… Sợ chặng đường xa biến thành ảo ảnh, sợ nhầm đường vàtự hỏi Có ai như mình không/ Cả tin điều chẳng thành sự thật bao giờ/ Một conđường vẽ ra từ mơ ước! Cuối cùng Cay đắng nhận ra bị người cướp mất/ Niềm tin/Thanh xuân/ Tình yêu/ và những ước mơ.

Không còn cái nhìn đầy ảo tưởng về sự bất biến. Sẽ có rất nhiều câu hỏi được đặt ra về những băn khăn, trăn trở, tìm lời giải về nhân thế, về cái đích đến, về những tròn đầy hay khiếm khuyết, cái được, cái mất. Và thảng thốt: Đục trong giữa cõi đời này/ Còn nhiều không những vòng tay bạn bè. Rõ ràng cái lo nhất vẫn là cái lovè tình người ấm lạnh.


Nhà văn Kao Sơn (phải) và nhà thơ Lương Tử Miên (trái)

Rất may, có thể là cho Lương Tử Miên. Có thể là cho Thơ. Rằng qua bao chiêm nghiệm về thăng trầm cõi đời và cõi người, cuối cùng ông vẫn cân bằng lại được, không bị gục ngã. Ba ngoái nhìn về chân trời cũ/ Nơi giăng giăng mùa mưa TrườngSon/ Nơi thủy chung màu xanh Trường Sơn – Ông tâm sự với con và thú nhận sự mình đã vin vào quá khứ mà qua tháng ngày bão giông. Và ông cũng vừa để lí giải, vừa là một nhắn nhủ tới thế hệ sau Đừng ám ảnh tâm tư của lớp người đi trước/Làm sỏi đá lót đường cho cháu con dấn bước/ Đến một chân trời sáng sủa hơn hôm nay... Câu thơ như một tổng kết, một gói ghém của tâm tư cả một thế hệ anh hùng đã ngã xuống, hi sinh cho tổ quốc, cho hôm nay. Đó cũng chính là bản lĩnh của người lính.

Văn là Người. Đọc Lương Tử Miên nhận ra ông dù trong quân ngũ hay khi đã trởvề với cuộc sống đời thường thì về bản chất ông vẫn luôn là một người trung thực.

Ông đã lấy cả cuộc đời mình ra để cống hiến, đẻ hy sinh. Và ông lấy tâm hồn mình ra để làm thơ. Gom góp suốt 45 năm những bài thơ viết về người lính, có cái nhìn buồn nhưng không phải để mất ý chí mà tích thành những yêu thương để gửi đời, gửi bạn bè, gửi lại cho con cháu mai sau hiểu rõ hơn về những ngày cha ông chúng đã sống.

Đơn giản nghĩ : Mình và đồng đội
Sống chết cho Tổ quốc ngẩng cao đầu
Xin mùa thu đừng vàng mà hãy cứ ngát xanh
Cứ trong trẻo một sắc màu nguyên thủy
Xin cuộc sống hãy êm đềm bình dị
Để có chút ngọt ngào sau một chuỗi đắng cay.

Chân thành cám ơn và xin được cùng độc giả chia sẻ, đồng cảm cùng Lương Tử Miên - Người lính làm thơ.

Sài Gòn, tháng 10 năm 2021.

Bình luận

Để lại comment

Bài viết liên quan

Xem thêm
Bàn tròn kỳ 36: Khi nhà thơ bị “vô hình” trong ca khúc phổ thơ
Có một nghịch lý đáng buồn trong đời sống âm nhạc – thơ ca: ca khúc phổ thơ thì nhiều, nhưng tên nhà thơ thường bị quên lãng.
Xem thêm
“Chữ gọi mùa trăng” – Khúc tri âm dịu dàng của một tâm hồn nữ tính
Tập thơ “Chữ gọi mùa trăng” của Triệu Kim Loan là thế giới nội tâm phong phú, đa chiều của một tâm hồn phụ nữ đầy trải nghiệm.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 35: Ai đang gieo “tin giả” trong văn học?
Ai mới thật sự gieo “tin giả” vào lòng công chúng? Và phải chăng chính sự thiếu minh bạch, thiếu chính trực của những người cầm bút mới là “chất độc” đầu độc niềm tin văn học hôm nay?
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 34: Hư cấu nghệ thuật trong phim “Mưa đỏ”
Một tác phẩm nghệ thuật thành công không nằm ở việc tái hiện chính xác từng chi tiết, mà ở chỗ khơi dậy tình yêu nước và lòng biết ơn cha anh, để lịch sử tiếp tục sống động trong tâm thức nhiều thế hệ.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 33: Khi “cái kết nhân văn” đi nhanh hơn tâm lý nhân vật
Truyện muốn nhấn mạnh tình máu mủ nhưng lại quên rằng tình phụ tử cũng cần thời gian và sự bồi đắp. Khi sự hòa giải diễn ra quá nhanh, cái nhân văn mà tác giả mong muốn dễ trở thành “nhân văn nóng vội”, chưa kịp đi qua những ngập ngừng, day dứt – vốn là hơi thở của đời thường.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 32: Nguyễn Duy và tiếng chuông gọi tên mười loại phê bình
Bài văn tế đặc biệt của nhà thơ Nguyễn Duy – một lời cảnh tỉnh, một tiếng chuông thức tỉnh từ một thi sĩ từng trải
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 31: Trăm Ngàn – từ cẩu thả chữ nghĩa đến vụng về truyền thông
Lần này, chúng ta hãy nghe hai cây bút vốn được xem là “những kẻ lắm chuyện” – TS Hà Thanh Vân và nhà văn Đặng Chương Ngạn nói gì? Một người đào sâu từ góc độ truyền thông – giữa báo chí chính thống và mạng xã hội, một người lại lật tung những chi tiết cẩu thả và phi lý trong chính văn bản truyện.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 30: Khi ý tưởng bị đánh tráo
Bàn tròn Văn học kỳ 30 xin mời bạn đọc cùng đối thoại về câu chuyện này – không phải để truy cứu cá nhân, mà để suy nghĩ sâu xa hơn: văn chương sẽ đi về đâu, nếu lòng tin của người viết trẻ bị phản bội và lòng tin của công chúng bị bỏ rơi?
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 29: Phản biện ẩn danh - Dũng khí hay sự né tránh?
Trong Bàn tròn kỳ này, câu chuyện nói về hiện tượng phản biện văn chương dưới những cái tên xa lạ, thậm chí là ẩn danh.
Xem thêm
Thi pháp của thơ ngắn – Trường hợp Mai Quỳnh Nam
Trong tất cả các thể loại văn học, thơ ca là nơi ưu tiên hàng đầu cho các hình thức ngắn gọn. Điều này không chỉ thể hiện ở độ dài khiêm tốn của các tập thơ mà còn nằm ở đặc trưng nội tại của thơ, vốn hướng đến sự cô đọng hơn so với các thể loại khác (như tiểu thuyết).
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 28: Minh bạch – từ chuyện nhỏ đến vấn đề lớn
Bàn tròn Văn học kỳ 28 không nhằm khơi gợi thị phi, càng không phải góp gậy góp đá “đánh hội đồng” một tổ chức nghề nghiệp mà chính “thư ký bàn tròn” này được vinh dự là hội viên.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 27: Công bằng trong xét giải - Từ quy chế đến thực tiễn
Giải thưởng văn học hằng năm của Hội Nhà văn Việt Nam đang đối diện một nghịch lý: quy chế một đằng, thực tế một nẻo.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” - Hành trình từ chiến trường đến nhân sinh
Lời ru bão giông của Trần Hóa không chỉ là một tập thơ, mà là bản hòa tấu của ký ức, trải nghiệm và những suy ngẫm về đời sống.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 26: Khi công bằng bị bỏ quên, im lặng trở thành câu trả lời
Bàn tròn Văn học kỳ này xin giới thiệu nội dung tóm lược của hai bức thư ngỏ – coi đó như một lời chất vấn trực diện, một thử thách đối với tính minh bạch và liêm chính của một cuộc thi văn chương quốc gia.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 25: Minh bạch là điều kiện sống còn của uy tín văn chương
Bàn tròn kỳ 25 chọn hai bài viết mới nhất của nhà văn Đặng Chương Ngạn về “thầy Uông” – thành viên Hội đồng Sơ khảo – như chất liệu để trao đổi thẳng thắn.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 24: Trăm Ngàn câu hỏi, một chữ Minh bạch
Xin mời bạn đọc cùng ngồi lại, để lắng nghe, để bàn luận, và biết đâu, để cùng trả lời câu hỏi day dứt: Liệu văn chương Việt có thể đứng thẳng bằng phẩm giá của nó, hay sẽ mãi lẫn lộn trong những “trăm ngàn” trò chơi lợi ích?
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 23: Giải thưởng, danh hiệu và chuẩn mực văn chương hôm nay
Nếu ở các kỳ trước, chúng ta chủ yếu xoay quanh truyện ngắn Trăm Ngàn, thì lần này, hai ý kiến góp mặt mở rộng vấn đề sang một góc nhìn gai góc hơn: chuyện “lợi ích nhóm” trong đời sống văn học – nghệ thuật.
Xem thêm
Những câu thơ thức “canh chừng lãng quên”
Với cảm hứng từ hai tứ thơ độc đáo – Cõng bạn đi chơi của Vương Cường và Dìu mẹ đi thăm mộ mình của Hồ Minh Tâm – bài viết của Bùi Sỹ Hoa (đăng trên Tạp chí Sông Lam, số 7/2025) đưa người đọc bước vào thế giới thơ về đề tài thương binh – liệt sĩ bằng một góc nhìn mới mẻ, giàu sức ám ảnh.
Xem thêm
Thơ Nguyễn Đức Hạnh, nỗi niềm thành mây trắng
Cánh buồm thao thức trân trọng giới thiệu bài viết của TS, nhà thơ, nhà phê bình Lê Thành Nghị - một bài viết công phu, giúp người đọc soi chiếu tập thơ Khát cháy từ nhiều chiều, để người đọc khám phá một “hiện thực khác” giàu thi vị.
Xem thêm