TIN TỨC
icon bar

Hương vị và sắc màu quê hương trong LAM HỒNG 7

Người đăng: nguyenhung
Ngày đăng: 2023-03-03 07:32:27
mail facebook google pos stwis
1281 lượt xem

PHAN NGỌC QUANG

Năm 2022, Hội thơ Nghệ Tĩnh tại TP.HCM đánh thêm dấu mốc quan trọng trên chặng đường nuôi dưỡng và phát triển thơ ca bằng tuyển tập thơ Lam Hồng 7.

Cầm trên tay vật kỷ niệm do chủ nhiệm hội thơ là thi sĩ Nguyên Hùng tặng, tôi thầm cảm phục hành trình chinh phục trái tim bạn đọc từng sinh ra tại mảnh đất núi Hồng sông Lam đến độc giả khắp mọi miền quê trên cả nước.

Ai cũng biết thơ bây giờ dễ in nhưng không dễ phát hành, vì thế giải được bài toán “cân bằng phương trình nhiều nghiệm” đó không hề đơn giản, trong đó có Hội thơ xứ Nghệ tại đất khách quê người. Nói như thế để thêm nâng niu đứa con thứ 7 của Hội thơ quê nhà. Còn nhớ, “Thao thức Lam Hồng” là tập thơ đầu tay của Hội đã ra đời từ năm 2008. Như vậy, trong 14 năm lớn lên đã có những thời gian đứt gãy trong cuộc sinh nở văn chương không liền mạch này. Điều đó cũng cho thấy dù dịch bệnh, dù khó khăn về kinh tế, về tác động của ngoại cảnh nhưng hành trình thơ của Hội thơ ca Xứ Nghệ vẫn sinh tồn theo nhịp đời thăng trầm và biến thiên. Ngay như đứa con thứ 6 là tập Lam Hồng 6 cũng đã ra đời cách đây 6 năm. Một thời gian “giãn cách thơ” không hề ngắn. Điều đó càng khẳng định bước đi vững chắc của Ban chủ nhiệm Hội thơ mà “chủ tướng” đứng đầu là nhà thơ Nguyên Hùng sau 2 nhiệm kỳ kế nghiệp. So với các tuyển tập trước, Lam Hồng 7 có số lượng bài không nhiều và nhiều tác giả cũng được tuyển chọn kỹ hơn. Quý hồ tinh bất quý hồ đa, rõ ràng giống như phù sa lắng đọng dưới dòng sông, thơ càng ít càng được chắt lọc hơn.

Đúng như tên gọi, tràn ngập tuyển thơ số 7 là hương vị sắc màu quê hương đậm đà trong mỗi vần thơ. Nỗi nhớ tháng ba chợt hiện về trong tâm tưởng đứa con xa nhà để lòng đau đáu niềm mong đợi: “Quê giờ vườn trắng hoa cam/ Xoan khoe áo tím, miên man lối về” (Tháng Ba – Trần Kim Dung). Tiếng gọi chiều quê hương ngân vang cùng giọng đàn, bay theo làn mây trắng, lặn vào sông núi quê nhà đẹp theo mỗi bước đi trong câu thơ Trần Quang Khánh (Chiều quê hương đẹp chẳng nói nên lời). Một chút trường xưa hiện về cũng làm lay động nỗi nhớ cồn cào: “Thời gian ngắn nghĩa tình vàng - Bút Hợp). Những câu thơ vương vấn mối tình đầu e ấp, vương vấn nỗi dại khờ của tuổi hoa niên để rồi đau mãi nỗi chia xa: Kỷ niệm trường xưa – Lê Thị Quế). Độc lạ với thể thơ tự do, Phạm Đình Phú lại kể về ngôi trường quê từng học như Phan Đình Phùng, ĐHSP Vinh để nuôi dưỡng niềm hy vọng về thế đứng của “ngôi nhà thân yêu” nhất của đời HS (Danh tiếng lan xa).

Trong tuyển tập, những câu thơ đi qua đèo Ngang cũng nhọc nhằn như người con dầm lũ dãi hạn nơi đây: “Thương đèo dãi nắng dầm mưa / Biển ôm lấy núi sớm trưa ru đèo” (Bùi Thanh Minh). Nhiều bài thơ vẫn không rứt ra được nỗi nhọc nhằn ám ảnh thường trực mà quê hương gánh chịu vì thiên tai, địch họa (Bồi hồi thương tiếc – Phạm Đình Phú). Thế nhưng nơi “đất cằn đá sỏi” không bao giờ nỗi buồn xâm lấn lũy tre làng, vượt lên trên mọi khó khăn là lòng yêu đời, yêu cuộc sống dài như sông, cao như núi.  Bài thơ “Miền Trung” đã tạc nên bóng dáng người miền quê ngụp lặn trong mồ hôi và nước mắt thật kỳ vĩ: “Cưỡi nóc nhà / Phi nước kiệu / trong đêm”. Thế rồi, đi ngược dòng sông La những kỷ niệm về quê xưa lại chảy tuôn trào trong ký ức ngọt ngào của anh: “Đêm nay thức với dòng La/ Nghe sông kể chuyện ngày xưa quê mình”. Lam Hồng 7 nói nhiều về những cây cầu. Nối nhịp cho những bờ vui, cầu cửa Hội, cầu Cẩm Nhượng làm nên bộ mặt đổi sắc thay da cho quê nhà. (Lục bát chiều – Trần Quang Khánh, Nhịp cầu duyên quê – Nguyễn Hồng Báu).

Trước trước mộ Nguyễn Du, Trần Kim Dung cảm tác bằng cách tập Kiều để nhớ thương thân phận người phụ nữ trăm đắng nghìn cay dưới xã hội “ăn thịt người ngọt xớt như đường” đầy rẫy phường “giá áo túi cơm”. Tác giả như nói hộ lòng người con xứ Nghệ ở phương xa (Vượt qua trăm núi nhìn đèo/ Hồn quê trong mỗi trang Kiều vẫn mang - Nhớ cảnh Tiên Điền) . Đi trên dòng Cửu Long lòng vẫn da diết nhớ quê nhà khi nghe đâu đó thấp thoáng câu ví giặm (Con muốn về quê mẹ/ mang câu ví thả vào chín nhánh Cửu Long – Nguyễn Văn Thanh). Đến cả sắc tím của loài hoa lang đồng nội đơn sơ cũng làm xốn xang miền ký ức người con xứ Nghệ, vì hoa nở nhọc nhằn trên cánh đồng cằn cỗi để ra củ nuôi no đủ bốn mùa: “Thương quê mình đồng khô gió mặn/ Thương hoa khoai tím trắng dịu dàng” (Lặng thầm một loài hoa quê - Nguyên Hùng). Khoai sắn chắt chiu nguồn sống để làm nên hồn cốt con người xứ Nghệ yêu thơ phú, giỏi văn chương: “Nhớ một thời nhờ củ sắn khoai lang/ Mà yêu chữ yêu vần thơ điệu nhạc”. Đọc câu thơ tôi lại nhớ câu chuyện TS Phan Xuân Biên kể hồi bé để củ khoai trước bàn để học xong có chút lót lòng và quan trọng hơn là nguồn động viên có ý chí để sau này thành tài khỏi phải ăn khoai.

Nhưng như lời bài hát từng tâm sự: “đi xa cũng muốn về, khổ đau cũng muốn về”, gấp trang thơ lại vẫn vang vọng nỗi nhớ quê hương luôn thúc giục đôi chân tìm về nguồn cội (Về quê – Phạm Hào Quang, Sông Lam ngày trở về - Nguyễn Vũ Quỳnh, Về quê mình đi anh – Nguyễn Minh Tâm) .

Không chỉ gói gọn trong bến nước, sông quê, Lam Hồng 7 còn mở rộng bán kính đề tài hướng về tình nghĩa gia đình, tình yêu đôi lứa (Má đã đi xa, Kỷ niệm một chiều mưa) và cả những miền quê nặng ân tình mà các nhà thơ xứ Nghệ đã từng để lại dấu chân đi. Đó là Eo Gió (Quy Nhơn), Đông Hà (Quảng Trị) và tận Cà Mau, Kiên Giang cuối trời Nam. Dù ở nơi nào, Lam Hồng 7 vẫn là giọng điệu nhớ thương từng miền đất yêu dấu hằn sâu vào từng trang ký ức ngọt ngào của tác giả.

Trong đội ngũ tác giả Hội thơ Nghệ Tĩnh, tôi thật sự ấn tượng với anh thương binh Phạm Hào Quang. Anh là người duy nhất sống sót trong tai nạn chiếc máy bay rơi tại Campuchia năm 1980. Với thương tật ¼ anh về với cuộc sống bằng đủ thứ nghề làm thuê vất vả. Gần 50 tuổi anh bước vào trường đại học bằng đôi chân tập tễnh và một nghị lực vươn lên thật phi thường. Nói về nỗi chia xa nhưng “Hoa gạo thành Vinh” của anh là bài thơ có nhiều hình ảnh sáng tạo đầy chất thơ rất đáng trân trọng (Hoa gạo rụng và tuổi hồng ta rụng, Máu đồng đội đỏ bầm màu hoa gạo. Ta trở về nhặt mảnh vỡ chia ly). Tưởng nhớ bạn gái chết trong trận bom B52 tại Hà Nội năm 1972, bài thơ “Hà Nội một chiều đông” của Phạm Hào Quang như tiếng khóc nghẹn lòng: “Hà Nội ơi chiều nay ta tẩm liệm/ Hình bóng em, đi suốt cuộc đời này”.

Mượn những mảnh ghép của kỷ niệm xưa, anh đã dựng nên từng khổ thơ ngồn ngộn tư liệu sống: “Chiếc hôn xưa trong chiều đông giá buốt/ Đã hóa vàng! Em siêu thoát nơi đâu?”. Mỗi câu thơ là một tiếng nấc xoáy vào nỗi đau tận cùng người đang sống và cả người đã khuất: “Rơi xuống hồ trăng vẫy vùng, trăng chết/ Và tình ta cũng vùi xác theo trăng”.

Nói chuyện với con bằng bài thơ “Về quê”, anh làm cho người đọc không khỏi day dứt khi nghe khổ thơ cuối nặng trĩu nỗi buồn: “Quê là muôn đời máu thịt của cha ông.../ Là bước chân ba khập khiễng tìm về”. Thơ anh không chỉ là nỗi buồn của lời than vãn số phận mà còn là niềm hy vọng về khung cảnh an yên khi dịch bệnh được đẩy lùi: “Bạn thân ơi, hãy đợi mình, bạn nhé/ Hết dịch rồi, ta xì xụp cháo lươn”. Có lẽ chỉ có thi sĩ thành Vinh mới hứa hẹn được lời gan ruột chắc chắn sẽ làm mát lòng bao người con xa xứ.

Phú Mỹ Hưng 1-3-2023.
P.N.Q

Bình luận

Để lại comment

Bài viết liên quan

Xem thêm
Bàn tròn kỳ 36: Khi nhà thơ bị “vô hình” trong ca khúc phổ thơ
Có một nghịch lý đáng buồn trong đời sống âm nhạc – thơ ca: ca khúc phổ thơ thì nhiều, nhưng tên nhà thơ thường bị quên lãng.
Xem thêm
“Chữ gọi mùa trăng” – Khúc tri âm dịu dàng của một tâm hồn nữ tính
Tập thơ “Chữ gọi mùa trăng” của Triệu Kim Loan là thế giới nội tâm phong phú, đa chiều của một tâm hồn phụ nữ đầy trải nghiệm.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 35: Ai đang gieo “tin giả” trong văn học?
Ai mới thật sự gieo “tin giả” vào lòng công chúng? Và phải chăng chính sự thiếu minh bạch, thiếu chính trực của những người cầm bút mới là “chất độc” đầu độc niềm tin văn học hôm nay?
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 34: Hư cấu nghệ thuật trong phim “Mưa đỏ”
Một tác phẩm nghệ thuật thành công không nằm ở việc tái hiện chính xác từng chi tiết, mà ở chỗ khơi dậy tình yêu nước và lòng biết ơn cha anh, để lịch sử tiếp tục sống động trong tâm thức nhiều thế hệ.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 33: Khi “cái kết nhân văn” đi nhanh hơn tâm lý nhân vật
Truyện muốn nhấn mạnh tình máu mủ nhưng lại quên rằng tình phụ tử cũng cần thời gian và sự bồi đắp. Khi sự hòa giải diễn ra quá nhanh, cái nhân văn mà tác giả mong muốn dễ trở thành “nhân văn nóng vội”, chưa kịp đi qua những ngập ngừng, day dứt – vốn là hơi thở của đời thường.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 32: Nguyễn Duy và tiếng chuông gọi tên mười loại phê bình
Bài văn tế đặc biệt của nhà thơ Nguyễn Duy – một lời cảnh tỉnh, một tiếng chuông thức tỉnh từ một thi sĩ từng trải
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 31: Trăm Ngàn – từ cẩu thả chữ nghĩa đến vụng về truyền thông
Lần này, chúng ta hãy nghe hai cây bút vốn được xem là “những kẻ lắm chuyện” – TS Hà Thanh Vân và nhà văn Đặng Chương Ngạn nói gì? Một người đào sâu từ góc độ truyền thông – giữa báo chí chính thống và mạng xã hội, một người lại lật tung những chi tiết cẩu thả và phi lý trong chính văn bản truyện.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 30: Khi ý tưởng bị đánh tráo
Bàn tròn Văn học kỳ 30 xin mời bạn đọc cùng đối thoại về câu chuyện này – không phải để truy cứu cá nhân, mà để suy nghĩ sâu xa hơn: văn chương sẽ đi về đâu, nếu lòng tin của người viết trẻ bị phản bội và lòng tin của công chúng bị bỏ rơi?
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 29: Phản biện ẩn danh - Dũng khí hay sự né tránh?
Trong Bàn tròn kỳ này, câu chuyện nói về hiện tượng phản biện văn chương dưới những cái tên xa lạ, thậm chí là ẩn danh.
Xem thêm
Thi pháp của thơ ngắn – Trường hợp Mai Quỳnh Nam
Trong tất cả các thể loại văn học, thơ ca là nơi ưu tiên hàng đầu cho các hình thức ngắn gọn. Điều này không chỉ thể hiện ở độ dài khiêm tốn của các tập thơ mà còn nằm ở đặc trưng nội tại của thơ, vốn hướng đến sự cô đọng hơn so với các thể loại khác (như tiểu thuyết).
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 28: Minh bạch – từ chuyện nhỏ đến vấn đề lớn
Bàn tròn Văn học kỳ 28 không nhằm khơi gợi thị phi, càng không phải góp gậy góp đá “đánh hội đồng” một tổ chức nghề nghiệp mà chính “thư ký bàn tròn” này được vinh dự là hội viên.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 27: Công bằng trong xét giải - Từ quy chế đến thực tiễn
Giải thưởng văn học hằng năm của Hội Nhà văn Việt Nam đang đối diện một nghịch lý: quy chế một đằng, thực tế một nẻo.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” - Hành trình từ chiến trường đến nhân sinh
Lời ru bão giông của Trần Hóa không chỉ là một tập thơ, mà là bản hòa tấu của ký ức, trải nghiệm và những suy ngẫm về đời sống.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 26: Khi công bằng bị bỏ quên, im lặng trở thành câu trả lời
Bàn tròn Văn học kỳ này xin giới thiệu nội dung tóm lược của hai bức thư ngỏ – coi đó như một lời chất vấn trực diện, một thử thách đối với tính minh bạch và liêm chính của một cuộc thi văn chương quốc gia.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 25: Minh bạch là điều kiện sống còn của uy tín văn chương
Bàn tròn kỳ 25 chọn hai bài viết mới nhất của nhà văn Đặng Chương Ngạn về “thầy Uông” – thành viên Hội đồng Sơ khảo – như chất liệu để trao đổi thẳng thắn.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 24: Trăm Ngàn câu hỏi, một chữ Minh bạch
Xin mời bạn đọc cùng ngồi lại, để lắng nghe, để bàn luận, và biết đâu, để cùng trả lời câu hỏi day dứt: Liệu văn chương Việt có thể đứng thẳng bằng phẩm giá của nó, hay sẽ mãi lẫn lộn trong những “trăm ngàn” trò chơi lợi ích?
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 23: Giải thưởng, danh hiệu và chuẩn mực văn chương hôm nay
Nếu ở các kỳ trước, chúng ta chủ yếu xoay quanh truyện ngắn Trăm Ngàn, thì lần này, hai ý kiến góp mặt mở rộng vấn đề sang một góc nhìn gai góc hơn: chuyện “lợi ích nhóm” trong đời sống văn học – nghệ thuật.
Xem thêm
Những câu thơ thức “canh chừng lãng quên”
Với cảm hứng từ hai tứ thơ độc đáo – Cõng bạn đi chơi của Vương Cường và Dìu mẹ đi thăm mộ mình của Hồ Minh Tâm – bài viết của Bùi Sỹ Hoa (đăng trên Tạp chí Sông Lam, số 7/2025) đưa người đọc bước vào thế giới thơ về đề tài thương binh – liệt sĩ bằng một góc nhìn mới mẻ, giàu sức ám ảnh.
Xem thêm
Thơ Nguyễn Đức Hạnh, nỗi niềm thành mây trắng
Cánh buồm thao thức trân trọng giới thiệu bài viết của TS, nhà thơ, nhà phê bình Lê Thành Nghị - một bài viết công phu, giúp người đọc soi chiếu tập thơ Khát cháy từ nhiều chiều, để người đọc khám phá một “hiện thực khác” giàu thi vị.
Xem thêm