TIN TỨC
icon bar

Thơ Nguyễn Đức Hạnh, nỗi niềm thành mây trắng

Người đăng: nguyenhung
Ngày đăng: 2025-08-14 08:46:57
mail facebook google pos stwis
144 lượt xem

Từ màu xanh sông Nho Quế đến mây trắng trên đỉnh Khau Vai, từ giọt mưa xứ biển đến mùa hạ cháy đỏ hoa phượng… thơ Nguyễn Đức Hạnh không dừng ở tả thực mà lặng lẽ “chưng cất” đời sống thành những suy tưởng lãng mạn và triết lý nhân sinh. Cánh buồm thao thức trân trọng giới thiệu bài viết của TS, nhà thơ, nhà phê bình Lê Thành Nghị - một bài viết công phu, đã soi chiếu tập thơ Khát cháy từ nhiều chiều, giúp người đọc khám phá một “hiện thực khác” giàu thi vị.

TS LÊ THÀNH NGHỊ

PGS. TS Nguyễn Đức Hạnh vốn là một nhà giáo đã quen thuộc với bạn đọc bởi những công trình nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học gắn bó với văn chương Việt hiện đại. Khoảng vài chục năm gần đây, Nguyễn Đức Hạnh xuất hiện nhiều với những tác phẩm truyện ngắn và thơ. Về thơ anh đã có năm tập: Núi khát (Nxb Hội Nhà văn, 2000), Vết thời gian (Nxb Sở Văn hóa-Thể thao Thái Nguyên, 2014), Khoảng lặng (Nxb Đại học Thái Nguyên, 2016), Thầm (Nxb Hội Nhà văn 2020) và Khát cháy, tập thơ song ngữ Việt- Anh, phần tiếng Anh do dịch giả nhà thơ Võ Thị Như Mai thực hiện (Nxb Văn học, 2025). Bung phá trên nhiều thể loại văn học, như thể là một cuộc tìm kiếm chưa mệt mỏi các giới hạn bên trong của mình, Nguyễn Đức Hạnh cho thấy anh là một cây bút xông xáo, mê say, nhiều nội lực và tài năng. Đọc thơ anh, sẽ nhận ra dấu ấn sâu sắc của một ngòi bút dù đang trên đường tìm tòi thể hiện, sẽ nhận ra rõ nét tâm hồn anh, một tâm hồn đã định hình phong phú, nhiều day dứt nhưng cũng rất tình tứ và lãng mạn.

Tôi đọc tập thơ Khát cháy, và theo thời gian càng đọc càng dần hình thành “ý niệm phản biện” về thơ Nguyễn Đức Hạnh trong nhận thức của mình. Trước hết là chất liệu hiện thực trong thơ anh. Một thời gian dài, trong thi pháp thơ Việt ít người làm thơ thoát khỏi khái niệm về cái “thật”. Ám ảnh bởi quan niệm chân chân chân, thật thật thật thuở nào, cái thuở mới chuyển từ thơ ca kháng chiến chống Pháp sang xây dựng hòa bình, tiếp đến là thơ thời kỳ chiến tranh chống Mỹ, hình như ai cũng cố gắng đưa thật nhiều “chật liệu hiện thực” vào thơ. Rút cuộc, “bức tranh hiện thực” càng cố càng thấy nhạt, càng thấy khô khan, xơ cứng, mất sức sống, càng thấy khiếm khuyết, không đủ, không vừa ý. Và đến nay thì cái “hiện thực” kia hầu như đã bị quên lãng, không còn ai đi tìm chất hiện thực trong thơ, kế cả thơ thời kỳ chiến tranh chống Mỹ. Bởi vì, về bản chất thơ không làm chức năng phản ảnh hiện thực. Hiện thực trong thơ chỉ còn lại như một cứ liệu để nhận dạng về một giai đoạn thơ Việt.

Thơ không làm chức năng “phản ảnh hiện thực”, nhưng hiện thực đời sống thì bao giờ cũng rất cần thiết đối với văn học nghệ thuật nói chung và thơ nói riêng. “Bứng” thơ ra khỏi đời sống chẳng khác gì bứng một cái cây xanh ra khỏi đất. Thơ là loài cây uống nước mà xanh (Nguyễn Đức Hạnh - Tháng Ba về Khau Vai). Đối với nhà thơ mức độ hiểu biết và cảm nhận hiện thực đời sống quyết định chất lượng trang viết của họ. Từ chất liệu đời sống, đến một cuộc khám phá sâu sắc bản chất của hiện thực, rồi bằng một sự sáng tạo thăng hoa và bí mật, ký thác vào đó tâm hồn, tư tưởng của mình, đây mới là nơi người đọc cần đến thơ. Trên cấp độ này, thơ cần vượt qua sự “miêu tả” hiện thực để vươn đến sự “biểu hiện” thế giới nội tâm của nhà thơ. Không có giới hạn nào cho sự sáng tạo trong thơ cũng bắt nguồn từ đó.

Hiện thực trong Thơ Nguyễn Đức Hạnh không tuân theo tiêu chí chân chân chân thật thật thật trên kia, anh không dụng công miêu tả, mà dụng công biểu hiện. Đi tìm một thứ hiện thực nào đó trong thơ Nguyễn Đức Hạnh cũng có thể được, cũng có thể là một đề tài cho một luận văn nào đó, nhưng như vậy là bỏ sở trường, lấy sở đoản của thơ anh. Sở trường của Nguyễn Đức Hạnh là từ chất liệu hiện thực đã trải qua, đã được ghi nhớ, lựa chọn kia, anh tiếp tục lục tìm từ bên trong, từ phía sau, chuyển hóa từ cụ thể đến trừu tượng, thêm vào đấy một chút siêu thực, đẩy ngòi bút đến một chiều kích khác, chiều kích của suy tưởng nhuốm màu sắc lãng mạn sau khi đã tỉnh táo không rơi vào tư biện, không tự bó mình trong vòng vây của lý thuyết nào đó mà giới “áo chùng thâm” vẫn hay vướng vào. Hiện thực trong thơ Nguyễn Đức Hạnh, vì vậy thường khi khá bất ngờ và “phi thực”:

…có triệu con đường đi qua mây trắng

Nhiều người nhớ làm Nho Quế xanh

Nhiều người thương làm đá núi lăn

Ngàn năm không ra tới biển

​​​(Tháng ba về Khau vai)

Hồ mùa thu hát bằng ánh trăng vỡ nát

Chỉ một hòn sỏi nghe rồi khóc

Cái đẹp đau thương nói một mình

​​​(Nghĩ về thơ trong ngày mưa nhiều)

Có thể nhận thức được “chất hiện thực” trong mấy câu thơ này không? Chắc chắn được! Nhưng đó là một hiện thực đã được “chưng cất”, một hiện thực không còn ở mức “nhìn thấy” mà chỉ là cảm thấy. Mục đích của Nguyễn Đức Hạnh cũng không phải hướng người đọc đến cái nhìn thấy. Màu xanh của sông Nho Quế là màu xanh bởi “nhiều người nhớ”, những tảng đá lăn ngàn năm kia không ra tới biển là vì “nhiều người thương”. Cảnh sắc Hà Giang rất gợi cảm nhưng cũng rất riêng tư, bạn có thể hình dung ra theo cách của bạn! Ở bài Nghĩ về thơ ngày mưa nhiều thì không còn là câu chuyện về vẻ đẹp của “hồ mùa thu” được nhận thức bằng thị giác nữa. Bởi vì nếu nói về vẻ đẹp của hồ mùa thu thì không thiếu gì cách. Cớ gì phải viện đến “ánh trăng vỡ nát”, “hòn sỏi nghe rồi khóc”? Anh muốn người đọc cùng ngẫm nghĩ, cùng hướng đến một hiện thực khác mà anh liên tưởng đến, rồi từ đó mỗi người theo một cảm nhận khác nhau, nhận ra những mức độ chân thực khác nhau thông qua những cảm nhận khác nhau của từng người. Người mang tính cách khá nông nổi như Thúy Vân có thể đọc rồi để qua, vì khó hiểu. Người hay suy ngẫm, nỗi niềm như Thúy Kiều thì để tâm tưởng của mình “lơ lửng” mãi trong “từ trường” của mấy câu thơ này, rồi nhận ra cái hay mà câu chữ gợi ra. Thơ hay vốn chứa nhiều ẩn số, vốn có nhiều cách cảm nhận. Tôi nhận ra số phận của “cái đẹp” trong quan niệm mỹ học về “hiện thực” của Nguyễn Đức Hạnh. Thơ hay thì khó hiểu vẫn hay!

Liên tưởng phong phú rồi suy tưởng bất ngờ làm nên một điểm đến của hiện thực khác lạ là cách làm của Nguyễn Đức Hạnh. Viết về tuổi thơ, anh soát lại trong “trường” liên tưởng của những quan sát và nhận biết của mình: Sợi lạt xâu cá lỡ xâu vào đêm/… Mấy vì sao nhấp nháy/ Chú cá cờ bơi trong ký ức. Những ký ức của đồng quê, của tuổi thơ làng quê định vị trong liên tưởng của anh

Có em tóc đuôi gà khét nắng

​Quả sim cắn đôi tím lịm chân trời

​Có tóc mẹ chảy thành suối vắng

​Bông hoa chuối rừng vừa cháy, vừa trôi

​​​​(Tuổi thơ ơi)

Đó là “tuổi thơ” cho dù đã xa xôi, những thứ “Giờ đã hóa thân bạt ngàn mây trắng” mà vẫn sống động, vẫn như không hề đứng yên, vẫn “trôi chảy” trong ký ức của người viết, trở thành một “hiện thực” đã không còn nguyên vẹn, mà dường như đã hơi “biêng biêng” so với hiện thực. Sự vật đã không còn ở dạng “nguyên quặng” của nó, mà được chế biến, nhào nặn, chưng cất, lựa chọn và thêm vào một ít tâm tư của người viết, nối dài thêm ý nghĩa cho điều đang viết. Thơ anh vì vậy giàu sức gợi, có khi gợi ra những điều tưởng như phi lí: Anh hát em nghe về một núi lửa/ Giờ ngủ yên bên một cánh rừng/ Khi núi lửa ngả đầu vào mây trắng/ Có giấc mơ chiều ướt đẫm dòng sông (Giấc mơ mùa thu). Anh nhớ đến cơn mưa quê hương: Mưa đong đầy rồi tràn ra ngoài mắt mẹ/ Ướt sũng con đang ngắm ngọn đèn dầu (Mẹ ơi con nhóm lửa), Sưởi cho bao mùa đông lăn thành giọt lệ/ Lăn đi đâu cũng mặn vào lòng/ Càng mặn càng trong (Mẹ ơi con nhóm lửa rồi), Chum đựng nước vỡ rồi còn vời vợi/ Uống một ngụm trong veo môi chảy máu/ Nước cắt vào rất sâu (Mẹ ơi! Con vẫn chỉ là con nghé), Có hai giọt mưa sót từ yêu thương cũ/ Nửa mang về, nửa vỡ bởi mùa đi (Tìm về), Cơn mưa xanh băng qua đại lộ/ Vấp bóng chiều mà ngã vào tôi (Bơi cùng Nha Trang), Trở về. Bến cũ chìm sâu trong mưa nhớ/ Sông Cầu còn giữ mắt xưa không (Sinh ra ở bến Tượng). Anh nhớ những mùa hoa trong những liên tưởng lãng mạn: Em kéo nón che một mùa sen nở/ Thở thật buồn sen trắng bay ngàn mây (Nói với Hoàng Cầm đêm mất ngủ), Sao mình giống những vòm hoa gạo ấy/ Cháy không nguôi giữa đất và trời/ Em cứ đến đừng chạm tay mà bỏng (Tự khúc tháng ba), Em thả hoa phượng cháy hồng bao con sóng/ Mùa hạ trèo ngọn cây luống cuống/ Làm rơi bao tiếng ve xuống tóc học trò/ Tiếng ve rắc vừng thơm vạn kem que/ Mùa hạ chảy xuống ngón tay trắng muốt (Ra bến Tượng ru sông Cầu), Khu vườn nhỏ có cây khế nhỏ/ Quả chín rơi ngọt cả tay cầm (Nói với em khi tóc bạc), Sóng chép bài ca lên cát âm thầm (Đêm Hạ Long), Gương mặt em buồn như trăng muộn…/ Người như đá tay cầm thành lửa/ Nửa đêm còn đổ thác bỏng làn môi (Đường rừng về), Đường vào buôn làm bằng tiếng cồng chiêng ngàn năm/ Đắm đuối gập ghềnh cũng lắm (Có một Tây Nguyên)…Theo Nguyễn Đức Hạnh thiên nhiên đẹp mới chỉ là xác đẹp (Đêm Co Xàu), thiên nhiên phải trên một cấp độ nữa, cấp độ từ cảm nhận đến suy tưởng, tưởng tượng mới thấy cái đẹp hoàn bích. Có thể thấy “sen” không còn là sen nữa, sen trong chiếc nón em che và hơi thở buồn đang bay lên như ngàn mây trắng. “Hoa gạo” cũng không còn nguyên y hoa gạo nữa. Hoa gạo đã là một “ám tượng” bỏng rát. “Mùa Hạ” hiện lên trong liên tưởng “vạn kem que/ chảy xuống ngón tay trắng muốt”, và trái khế (thường chua) trong câu thơ trên cũng đã không còn vị chua nữa. Nó hóa thành một một kỷ niệm ngọt ngào! Bến cũ và sông Cầu cũng không còn nguyện vẹn ngày về. Giọt mưa cũ cũng đã vỡ bởi mùa đi. Cơn mưa xanh “vấp” phải bóng chiều. Gương mặt em có gì như vầng trăng muộn. Đường vào buôn hiện lên trong thính giác (âm thanh) chứ không phải trong thị giác…vv. Tất cả dường như có một “chân trời khác” bất ngờ và bí mật nhưng không kém phần thi vị qua sự liên tưởng có vẻ như ảo giác trong bút pháp của tác giả! Cái bất ngờ và phi lí này là một chiều kích khác của hiện thực. Hay nói cách khác ngòi bút của tác giả đã mon men đến bên bờ của cái siêu thực. Hiển nhiên, thơ Nguyễn Đức Hạnh không theo chủ nghĩa siêu thực (surrealism) đơn thuần. Anh chỉ như phớt nhẹ thêm vào bức tranh hiện thực kia một chút siêu thực, để người đọc nếu theo thói quen bị ràng buộc bởi cái thực, thì có thể có thêm một công cụ khác, đó là cái lăng kính để soi nhìn cái phi thực, cái ảo, để nhận ra cái vừa chân thật vừa liêu trai (Mùa đông Hà Nội) mà anh muốn thể hiện. Ở những “điểm đến” này những câu thơ như mở ra một không gian khác chứa đựng nhiều mỹ cảm, kích thích trí tuệ, làm thư giản tâm hồn. Chẳng phải nhiều khi cuộc sống vẫn cần một sự vượt thoát khỏi cái không gian trần trụi vây bủa con người, đó sao?

Một thế giới hiện thực khác cũng mở ra nhiều chiều trong thơ Nguyễn Đức Hạnh. Đó là những “nỗi niềm” tâm trạng của tác giả trong quá trình sống, và từ đó bài học về lẽ sống hiện lên trong câu chữ của anh, những điều tưởng chẳng có gì khác lạ nhưng thấm thía thế thái nhân tình. Nó làm nên một mảng “hiện thực tâm trạng” đậm đặc trong thơ anh, mỗi khi anh Đi ngược vào mình (Ngược). Một cảm thức thời gian Hai mươi năm gặp lại…/Em vẫn như sao mai ngơ ngác/ Mới khẽ cười lệ đã vỡ làm đôi…/ Em chợt đến chợt đi như tàu lạ (Bơi cùng Nha Trang), Xin em đừng đan áo/ Tôi già rồi không đợi được đâu (Nghiêng bến tình cương). Một số phận của kiếp người Bác bán dao mài nỗi buồn ế khách/ Tuổi tác trôi qua mặt đá mài/ May còn đuôi mắt sắc/ Mài ngực chị bán xôi (Cây ba ngàn tuổi nói thầm). Một nỗi niềm miên man trên phố cổ/ Hồn phố bày hàng xén/ Bán vui buồn cho thế nhân (Hà Nội lúc nào chẳng mưa). Một kỷ niệm xót xa Anh như xe cà tàng quên bảo dưỡng/ Chạy đến dốc em thì cháy cả đêm…/Vắng một người Phú Yên buồn thế/ Cát gió chiều toàn cúi mặt đi xiêu (Tạm biệt Phú Yên). Một lần “tự thú” Hạt cát này mang gương mặt giống tôi/ Dám đơn ca về nỗi buồn sa mạc/ Trước khi tan bởi gót một người (Xa biển Phú Yên). Nguyễn Đức Hạnh soi chiếu “hiện thực” qua tâm trạng của mình. Khi anh đau buồn Hy vọng mọc thành cỏ lau trắng mãi. Hóa cơn mưa đi đón mặt trời/ Càng đau cành trắng xóa (Đợi mặt trời), Những cánh chim đậu vào đâu cũng buốt/ Chỉ một loài bật tiếng kêu đau (Giấc mơ chiều). Khi tâm hồn anh xốn xang Đi qua mùa xanh non/ Thấy mình đang thay lá (Mình đang thay lá). Khi anh thao thức Giấc ngủ ngắn dần, giấc mơ cũng ngắn (Nói giản dị về mùa thu). Khi anh trăn trở, ngẫm ngợi Ướp mấy cánh sen vào trà ngơ ngác/ Hương sen khóc thầm chỉ nước sôi biết (Nghĩ vụn đêm trắng). Khi anh tự mình lắng nghe bên trong mình Đi ngược vào mình cũng là đi. Chân nhẹ chân nặng/ Mắt khóc mắt cười/ Cỏ bên đường vừa ghét vừa thương/ Đá nhọn thế thời gian không mài nổi (Ngược). Khi anh cô đơn Buồn thì ra bến/ Thả mình trôi khỏa đục tìm trong (Tôi là ống cơm lam nướng vụng)…Những “nỗi niềm” trong thơ Nguyễn Đức Hạnh thường là những khoảnh khắc tâm trạng thảng thốt, bất an trước cuộc đời. Nó như một phần của cuộc sống, khi vào thơ nó như những khoảnh khắc nhuốm màu cá nhân, làm nên một “hiện thực tâm trạng” của cá nhân nhưng mang nỗi niềm chung của mọi người.

Thơ Nguyễn Đức Hạnh giàu chất triết lí, suy ngẫm về cuộc sống. Với một cách nhìn hiện thực không đơn giản trên đây và cuộc sống được phát hiện từ chiều kích siêu thực kia, tự nó mang đến trong thơ Nguyễn Đức Hạnh ý nghĩa triết lí. Vậy nên, dễ nhận ra đây không phải là thứ triết lý khô khan, sách vở, mà là triết lí ngay từ những chất liệu cuộc sống khi hình tượng thơ được thiết lập. Triết lý trong thơ Nguyễn Đức Hạnh là một biện pháp để mài nhọn tư tưởng, là đúc kết từ những chiêm nghiệm cuộc sống, là bài học được phát hiện từ quá trình sống mà anh quan sát, tích lũy.

Một chén trà làm thư giản tâm hồn bao người, nhưng đã có ai ngoái lại cái “bề sau” của chén trà để nhận ra “sự đời” trong cái tan nát của nó: Người uống khen dăm tiếng/ Âm thầm đau. Không lời/ Bã trà ôm lấy đất/ Nhìn gót chân của người. Nhưng anh không chỉ dừng lại ở cái đau ấy mà đi đến một khái quát: Cái còn lại của một đời/ Cố thơm lần nữa dưới trời lạnh tanh (Bã trà). Đến đây thì không còn là câu chuyện của bã trà nữa mà có thể của mọi vật, kể cả con người với cái tưởng chỉ đáng vứt đi cũng tự mình biết giá trị của mình, chỉ cần một người hiểu. Cũng như Đá xám ngàn năm kể bao huyền thoại, tự biết Quen nói thầm vì kiêu hãnh trong xương mới là coi được (Em và anh, hai giọt cà phê): Đá xấu xí mà kiêu hãnh/ Chỉ có rừng hiểu thôi (Giấc mơ mùa thu). Điều rút ra mang ý nghĩa sâu sắc của sự quyết định giữa nội dung và hình thức!

Quan sát từ một đặc điểm của sự vật “Sông nói bằng sóng/ Rừng nói bằng gió”, đến phong cách của các thi nhân “thơ nói to và thơ nói thầm” anh đúc kết mang tính quy luật: Trên trái đất này/ Loài nói thầm đau sâu/ Loài nói to quên mau? (Những lời nói thầm thường đau sâu). Triết lý này liên quan đến một hiện tượng “thùng rỗng kêu to” thường vẫn xảy ra không chỉ trong văn chương mà ở lĩnh vực nào, thời nào cũng có người vướng phải. Nhưng văn chương và nhất là thơ thì đúng là không cần nói nặng, mà cần nói nhẹ, không cần nói to, mà cần nói thầm, không cần nhiều lời, mà cần lắng sâu như sóng chép bài ca lên cát âm thầm (Đêm Hạ Long), hoặc như Thác hoang sơ thì đẹp/ Chảy vào hồ buồn đến mênh mông (Có một Tây Nguyên). Ý ngắn mà lời dài thì không phải là nơi thơ tìm đến. Đôi khi im lặng cũng có ngôn ngữ của nó. Chẳng hạn, khoảng im lặng giữa các dòng chữ có thể chứa đựng nỗi niềm của người viết! Và thường khi cái đẹp thì không cần “nhiều lời, nói to” Khen chê mưa nắng. Ban mai vẫn trong/ Tung hô một thưở. Hoàng hôn vẫn buồn (Nghĩ vụn trong đêm). Điều này Nguyễn Đức Hạnh đưa vào thơ mình như một bài học về thi pháp: đi học sông/ Lặng lẽ thế mà âm vang thế, đưa vào lối sống của mình như một phép ứng xử: Xin học cây/ Đau quá thì rụng lá (Tự họa)… Triết lí sống ấy tưởng như có một chút cam chịu, nhưng lại chứa đựng những nhân tố tích cực trong những hoàn cảnh cần phải vượt lên những cái tầm thường. Rất nhiều những mây trắng (màu trắng) được đem đến trong thơ như một biểu hiện của bút pháp lãng mạn, thấm đẫm tư tưởng Lão Trang: Hóa thành bạt ngàn mây trắng (Tuổi thơ ơi), Sen trắng bay ngàn mây (Nói với Hoàng Cầm đêm mất ngủ), Ngả đầu vào mây trắng (Giấc mơ mùa thu), Dựng túp lều lợp bằng mây trắng (Tình ca sông Cầu), Có triệu con đường đi qua mây trắng (Tháng ba về Khau Vai), Hy vọng mọc thành cỏ lau trắng mãi/ Càng đau càng trắng xóa (Đợi mặt trời), Thơ hóa thành lụa trắng (Hát ru Lâm Thị Mỹ Dạ) …. Anh muốn bạn đọc hướng đến sự cao cả, thanh sạch trong tâm hồn, đạt tới trạng thái bình an, an nhiên trước mọi biến cố của cuộc đời.

KHÁT CHÁY là một tập thơ ẩn chứa quan niệm, tư tưởng của Nguyễn Đức Hạnh về sáng tạo nghệ thuật, ẩn chứa những nỗi niềm tâm trạng của anh về thế thái nhân tình. Với sáng tạo nghệ thuật, Nguyễn Đức Hạnh tự tin đổi mới trong quan niệm về hiện thực, với những nỗi niềm tâm trạng cho dù bất an, phiền muộn đến đâu, theo anh, rồi cũng sẽ theo quy luật của muôn đời:

Sau mưa là núi. Sau núi là một ngôi nhà

Nỗi niềm thành mây trắng, vừa bay vừa tan xa…

​​​(Những lời nói thầm thường đau sâu)

​​​Tháng 7 năm 2025

L.T.N

Bài viết liên quan

Xem thêm
Bàn tròn kỳ 22: “Một truyện ngắn dở như thế thì cãi nhau làm cái gì?”
Với góc nhìn của một người giàu trải nghiệm nghệ thuật, đạo diễn Lê Hoàng đã viết một status “thẳng ruột ngựa” về Trăm Ngàn: không quanh co, không xoa dịu, không hề sợ đụng chạm.
Xem thêm
Hà Thanh Vân: “Tôi đã định không nói gì thêm…” – Nhưng ai cho tôi yên đâu!
“Tôi đã định không nói gì thêm…” – nhưng rồi, như một tật xấu khó bỏ, TS Hà Thanh Vân lại tiếp tục viết.
Xem thêm
Từ motif cũ đến thông điệp nhân văn mới – một góc nhìn chuyên môn và cảm xúc
Theo PGS.TS Nguyễn Đức Hạnh, từ motif cũ, cách kể cũ, Vũ Ngọc Thư vẫn mang đến một truyện ngắn tốt – nhờ biết giữ lại giá trị của những điều quen thuộc và gợi mở một cảm quan hiện đại về hậu chấn chiến tranh. Đặc biệt là cái nhìn đầy chia sẻ với người phụ nữ và trẻ em – những phận người thường bị khuất lấp sau vầng hào quang chiến thắng.
Xem thêm
Từ chuyện “Trăm ngàn” nghĩ về phê bình và giải thưởng văn chương
Bàn tròn Văn học xin giới thiệu hai góc nhìn từ nhà văn Nguyễn Quế và cử nhân Sử học, CCB Nguyễn Xuân Vượng – như thêm hai lát cắt cho tấm gương phản chiếu đời sống văn chương hôm nay.
Xem thêm
Phê bình cần lý trí và người viết cần lắm lòng nhân ái
Trong bài viết “Trăm Ngàn trước búa rìu dư luận” dưới đây, nhà văn Phan Thị Thu Loan không đứng về phe nào, chỉ chọn đứng về phía sự hiểu – và sẻ chia.
Xem thêm
Bàn tròn Văn học kỳ 15: Cuộc thi văn chương có bị “đánh cắp”?
Kỳ này trân trọng giới thiệu một số ý kiến tiêu biểu từ các nhà thơ, nhà văn – như một cách lan tỏa lòng yêu nghề, yêu sự thật và dám lên tiếng trước những điều bất minh:
Xem thêm
Minh bạch đến đâu là đủ? Và liệu chúng ta có đang đòi hỏi quá mức?
Mời bạn đọc cùng theo dõi bài viết của nhà văn Đặng Chương Ngạn — một tiếng nói tỉnh táo trong bão thông tin — và cùng Bàn tròn giữ vững tinh thần đối thoại xây dựng, công tâm, và văn minh.
Xem thêm
Đọc xong buồn... mà không hiểu vì sao tôi buồn
Một bài viết ngắn, không nặng lý luận, nhưng có sức truyền cảm – bởi nó được viết từ trải nghiệm, từ nhân cách và từ tình yêu thực sự với văn chương.
Xem thêm
Bàn tròn Văn học kỳ 12: Ai mê cứ mê, còn gã thì hổng mê truyện này!
Một bài viết dễ thương, đúng chất “báo bổ”, và cũng là một dư vị khác lạ góp vào mâm Bàn tròn lần này – nơi mà mỗi tiếng nói đều có giá trị khi được gửi gắm với tinh thần xây dựng và vì văn chương một cách chân thành.
Xem thêm
Bàn tròn Văn học kỳ 11: Rơi tõm vào vực thẳm…
Với tiêu đề gợi hình Rơi tõm vào vực thẳm…, bài viết không chỉ phản ánh nỗi hụt hẫng của người cầm bút, mà còn phơi bày sự sụp đổ âm thầm của niềm tin.
Xem thêm
Một góc nhìn có thể không thuận nhưng cần thiết
Bàn tròn Văn học kỳ 10 trở lại với một tiếng nói… không êm ái, thậm chí có phần khá gắt, nhưng đáng để đọc: TS. Hà Thanh Vân, người vẫn kiên trì với góc nhìn phân tích trên cơ sở một kiến văn đáng nể, và không né tránh các câu hỏi về chất lượng thực sự của một tác phẩm văn chương.
Xem thêm
Có nhất thiết phải “xài thuần Nam Bộ” thì mới gọi là truyện miền Tây?
Dưới góc nhìn của một người làm thơ nhưng không thiếu lý luận, bà đặt Trăm Ngàn vào những câu hỏi không dễ trả lời
Xem thêm
Một truyện ngắn trung bình với những tín hiệu tích cực đáng mong chờ
Kỳ 8 này, chúng tôi xin giới thiệu một bài viết khá công phu của tác giả SƠN HÀ – “một giáo viên dạy văn bình thường” đã nghỉ hưu, nhưng vẫn còn nặng lòng với văn chương và nghề dạy học.
Xem thêm
Truyện ngắn “Trăm Ngàn”: Kẻ khen người chê, nghĩa là văn chương còn sống!
Bàn tròn Văn học tuần này xin giới thiệu hai status - hai góc nhìn mới: một người khen ngợi chân thành, một người phản biện chi tiết và không ngại “nói thẳng”.
Xem thêm
Trăm ngàn… câu hỏi sau một truyện ngắn
Chuyên mục Bàn tròn Văn học kỳ này trân trọng giới thiệu những ý kiến chọn lọc từ những người làm công tác chữ nghĩa hoặc yêu chữ nghĩa để cùng góp phần “làm tròn” hơn nhiệm vụ của một cuộc đối thoại văn chương chân thành.
Xem thêm
"Nhà là nơi có tình thương”
Bài viết được chia sẻ trên Facebook cá nhân của nhà thơ Lê Gia Hoài.
Xem thêm
Lạc giữa truyện ngắn “Trăm Ngàn”
Đọc truyện ngắn Trăm Ngàn, chúng ta luôn có một trạng thái bất an. Cứ phải véo vào tay xem mình có còn tĩnh trí nữa không, bởi ta có cảm giác như đang bị lạc trôi – lạc về địa lý, lạc về vùng miền, lạc về thời đại.
Xem thêm