TIN TỨC
icon bar

“Trăm khúc hát” ngân vang từ “một chữ duyên”

Người đăng: nguyenhung
Ngày đăng: 2024-10-08 18:57:52
mail facebook google pos stwis
1333 lượt xem

VỀ THƠ NGUYÊN HÙNG
(Mời click vào dòng chữ trên để truy cập chuyên mục)

NGUYỄN QUẾ

Tác giả Nguyễn Xuân Hương đã viết trong bài “Vài nét về chữ Duyên trong thơ Nguyên Hùng”: “Triết lý Nhà Phật có nói về chữ “duyên”: Duyên vốn là từ gốc chữ Hán có nghĩa là nguyên nhân, nguyên do, nguyên cớ phát sinh ra sự việc…”. Có lẽ, đó là lý do nhà thơ Nguyên Hùng sử dụng chữ duyên khi anh đặt tên cho tác phẩm của mình.
 

Tác giả Nguyễn Quế
 

Chữ duyên - cội nguồn “Trăm khúc hát” và nhiều thi phẩm khác của Nguyên Hùng - chính là sự gắn bó máu thịt của nhà thơ với vùng quê tuy gian khó nhưng đầy ắp tình người, giàu truyền thống cách mạng và thi ca; là lòng yêu thương vô bờ của tác giả đối với gia đình, những người xung quanh và cuộc đời này; là khát vọng vươn tới những giá trị chân, thiện, mỹ cao đẹp để góp phần tô thắm cho đời… Hãy nghe Nguyên Hùng viết về vùng đất quê anh:

    “Quê tôi đồng khô ruộng cạn

     Lúa ít khoai nhiều

     Củ khoai lang hóa thành đặc sản

     Bạn bè xa nghe tiếng là yêu”

Vùng quê ấy không rộng lớn, trù phú nhưng gần gũi và thơ mộng biết bao:

    “Đồng biển quê tôi không thẳng cánh cò bay

     Những bãi cát chen nằm phơi nắng

     Những luống khoai nở bùng hoa trắng

     Biển sóng lô xô ru đảo cát vàng”

          (Lặng thầm một loài hoa)

Là người con của biển, từ nhỏ, Nguyên Hùng đã được biển cả đưa ngàn cánh võng,   ru những khúc nhạc du dương, trầm bổng đến bất tận. Trong trái tim anh, biển quê hương thật gần gũi, thiêng liêng và là cội nguồn của những hoài bão, ước mơ đẹp đẽ:

    “Biển mãi là máu thịt ông cha

     Nơi anh linh ngàn đời hòa sóng nước

     Biển thắp sáng tuổi thơ đầy mơ ước

     Lớn khôn rồi lại khát thuở thần tiên…”

        (Cho biển mãi xanh)

Cùng với biển và đồng đất quê hương, dòng sông quê luôn gắn bó với thi nhân những kỷ niệm không thể n:ào quên:

    “Ta sinh ra từ một dòng sông

     Sông dài rộng, con đò ngang thì bé

     Đạn rít bom gầm cày nát thời thơ trẻ

     Khói lửa vừa tan, mỗi đứa một phương trời”

Những tháng ngày cách xa, trong lòng nhà thơ vẫn vang vọng mãi những câu hát, điệu hò xứ sở. Anh mong mỏi một ngày được trở về ngụp lặn giữa bến sông yêu dấu:

    “Ơi dòng sông ngọt lịm điệu đò đưa

     Ơi dòng sông mặn mòi câu ví dặm

     Gía mỗi chiều được về quê ngụp lặn

     Giữa trong xanh da diết một cánh buồm…”

            (Gửi dòng sông câu ví)

Là người có trái tim sâu nặng nghĩa tình, Nguyên Hùng yêu quý và tự hào biết bao những người con của vùng đất quê hương mình. Trong tâm thức nhà thơ, họ là những con người bình dị, chân chất nhưng giàu lòng yêu nước, luôn anh hùng quả cảm trong chiến đấu và hăng hái trong lao động sản xuất:

    “Ta tự hào quê Cửa Lò Cửa Hội

     Người quê biển ăn sóng nói gió

     Phóng khoáng tài hoa nhờ mắm muối dưa cà

     Từ nhiều đời tiếp bước ông cha

     Cùng ra trận khi quân thù kéo đến

     Giặc cút rồi ta lại về với biển

     Theo những bạn chài tìm cá nơi xa

     Giữa sóng biển bao la con tàu nhỏ làm nhà

     Nuôi khát vọng đi lên từ đất biển”

Hòa giữa điệp trùng những người con của làng quê yêu dấu ấy là hình ảnh những người thân của nhà thơ. Thật cảm động khi ta đọc những câu thơ tác giả viết về người cha yêu kính của mình:

    “Cha là con của biển khơi

     Thay ông mất sớm, một đời nắng mưa

     Đời cha không có tuổi thơ

     Thuyền là trường học từ chưa biết vần”

Dẫu năm tháng trôi qua, dẫu cuộc đời đổi khác, nhưng lời nói, tiếng cười, bao nỗi vất vả, hy sinh cùng những mừng vui cha mang về, và nhất là nỗi mất mát đau thương khi cha không qua nổi cơn bạo bệnh mãi in đậm trong ký ức của tác giả:

    “Nhớ cha hồn hậu tiếng cười

     Nhớ cha bộc trực từng lời chân quê

     Thương cha đi sớm về khuya

     Qua bom qua bão mang về mừng vui

     Để cơn bạo bệnh cuối đời

     Cha không qua nổi.

     Nghẹn lời cháu con!

 

     Cha đi để lại bóng tròn

     Cánh buồm một thuở vẫn còn gió neo…”

            (Nhớ cha)

Càng nhớ thương người cha quá cố, Nguyên Hùng càng trân quý những phút giây được ở bên cạnh mẹ, được cùng gia đình vui xuân mừng tuổi mẹ và cảm nhận sâu sắc niềm hạnh phúc của mẹ bên cháu con:

    “Mừng mẹ xuân này tròn tám chục

     Đông đủ cháu con về bên mẹ sum vầy

     Cả cuộc đời lo toan, khó nhọc

     Hẳn mẹ rất vui có những phút này”

Ngước nhìn người mẹ hiền yêu dấu, nhà thơ cảm thấy lòng đầy tự hào trước hình ảnh cao đẹp của mẹ:

    “Tám mươi năm chất nặng vai gầy

     Mẹ vẫn thẳng lưng giữa đàn cháu nhỏ

     Xua thần chết từng mấy lần gõ cửa

     Mẹ lại ngồi đây chậm rãi nhai trầu”

          (Bên mẹ xuân này)

Chính cuộc đời tần tảo nhưng kiên cường vượt qua mọi gian khó và bạo bệnh của tuổi già, bình thản trước quy luật khắc nghiệt của tạo hóa nơi mẹ đã tiếp thêm sức mạnh cho các lớp cháu con, trong đó có nhà thơ, vươn lên trong cuộc sống.

Với Nguyên Hùng, bên cạnh hình bóng các bậc sinh thành, biển và quê hương luôn gắn liền với tình cảm anh dành cho người phụ nữ mà anh yêu dấu. Nhà thơ đã viết nên những câu thơ tình thật đẹp:

    “Anh lớn lên trên sóng

     Nên say hoài biển xanh

     Biển đưa ngàn cánh võng

     Ru bồng bềnh hồn anh.

    

     Em chỉ là giọt nhỏ

     Giữa dòng đời lặng trôi

     Mà trước em, anh ngỡ

     Trước muôn trùng biển khơi.”

          (Biển và em)

Từ nơi sinh ra ở cửa biển của dòng sông Lam thơ mộng thuộc phường Nghi Hải, thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An; từ vòng tay yêu thương của mẹ cùng tình cảm mặn nồng của cha và những người thân, Nguyên Hùng bước vào biển đời với tâm hồn rộng mở. Anh nặng lòng với quê hương, với những vùng quê mình đã đi qua, đã từng gắn bó những năm tháng của cuộc đời và cả những dải đất thiêng liêng của Tổ quốc anh chưa một lần đặt chân đến. Đó là Hà Nội, Thủ đô đong đầy nỗi nhớ; là Bảo Lộc thấm đẫm hương đất tình người; là Thủ Đức, thành phố trẻ bên sông; là Côn Đảo huyền thoại, là biển Sao Mai xinh đẹp của xứ Phú Yên; là vùng đất Tây Nguyên bừng sức sống mới… Anh trân quý những con người đã cống hiến sức lực, tài năng và tuổi thanh xuân, góp phần viết nên trang sử vàng cho đất nước. Đó Đại tướng Võ Nguyên Giáp, vị tướng huyền thoại của nhân dân; là nữ anh hùng – liệt sỹ Võ Thị Sáu; là những người chiến sỹ dũng cảm, mưu lược năm xưa, khi trở về cuộc sống thời bình vẫn phát tuy bản chất truyền thống cao đẹp của bộ đội Cụ Hồ trên các lĩnh vực công tác và cuộc sống…

Cùng tấm lòng sâu nặng với quê hương, đất nước, con người, Nguyên Hùng luôn mang trong mình tình yêu say đắm với thi ca. Hình như hồn thơ luôn trú ngụ trong trái tim anh. Vì vậy, sau những năm tháng miệt mài với công việc giảng dạy của một tiến sỹ Công trình thủy, anh đã dành phần lớn thời gian, tâm sức còn lại cho hoạt động sáng tạo. Sức viết của anh thật đáng nể phục bởi chỉ trong thời gian khoảng 20 năm, anh đã cho ra đời tám tập thơ, trong đó có những tác phẩm gây tiếng vang. Thơ Nguyên Hùng mộc mạc, chân phương nhưng có nội lực, nói lên được tâm tư, tình cảm của nhiều người, lại giàu nhạc điệu. Đó là nguyên nhân thơ anh được nhiều nhạc sỹ chọn phổ nhạc. Có lẽ trong làng thơ Việt Nam, ít tác giả có số lượng lớn tác phẩm thơ được phổ nhạc, lại có nhiều “khúc hát” nổi tiếng như anh.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Bàn tròn kỳ 36: Khi nhà thơ bị “vô hình” trong ca khúc phổ thơ
Có một nghịch lý đáng buồn trong đời sống âm nhạc – thơ ca: ca khúc phổ thơ thì nhiều, nhưng tên nhà thơ thường bị quên lãng.
Xem thêm
“Chữ gọi mùa trăng” – Khúc tri âm dịu dàng của một tâm hồn nữ tính
Tập thơ “Chữ gọi mùa trăng” của Triệu Kim Loan là thế giới nội tâm phong phú, đa chiều của một tâm hồn phụ nữ đầy trải nghiệm.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 35: Ai đang gieo “tin giả” trong văn học?
Ai mới thật sự gieo “tin giả” vào lòng công chúng? Và phải chăng chính sự thiếu minh bạch, thiếu chính trực của những người cầm bút mới là “chất độc” đầu độc niềm tin văn học hôm nay?
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 34: Hư cấu nghệ thuật trong phim “Mưa đỏ”
Một tác phẩm nghệ thuật thành công không nằm ở việc tái hiện chính xác từng chi tiết, mà ở chỗ khơi dậy tình yêu nước và lòng biết ơn cha anh, để lịch sử tiếp tục sống động trong tâm thức nhiều thế hệ.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 33: Khi “cái kết nhân văn” đi nhanh hơn tâm lý nhân vật
Truyện muốn nhấn mạnh tình máu mủ nhưng lại quên rằng tình phụ tử cũng cần thời gian và sự bồi đắp. Khi sự hòa giải diễn ra quá nhanh, cái nhân văn mà tác giả mong muốn dễ trở thành “nhân văn nóng vội”, chưa kịp đi qua những ngập ngừng, day dứt – vốn là hơi thở của đời thường.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 32: Nguyễn Duy và tiếng chuông gọi tên mười loại phê bình
Bài văn tế đặc biệt của nhà thơ Nguyễn Duy – một lời cảnh tỉnh, một tiếng chuông thức tỉnh từ một thi sĩ từng trải
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 31: Trăm Ngàn – từ cẩu thả chữ nghĩa đến vụng về truyền thông
Lần này, chúng ta hãy nghe hai cây bút vốn được xem là “những kẻ lắm chuyện” – TS Hà Thanh Vân và nhà văn Đặng Chương Ngạn nói gì? Một người đào sâu từ góc độ truyền thông – giữa báo chí chính thống và mạng xã hội, một người lại lật tung những chi tiết cẩu thả và phi lý trong chính văn bản truyện.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 30: Khi ý tưởng bị đánh tráo
Bàn tròn Văn học kỳ 30 xin mời bạn đọc cùng đối thoại về câu chuyện này – không phải để truy cứu cá nhân, mà để suy nghĩ sâu xa hơn: văn chương sẽ đi về đâu, nếu lòng tin của người viết trẻ bị phản bội và lòng tin của công chúng bị bỏ rơi?
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 29: Phản biện ẩn danh - Dũng khí hay sự né tránh?
Trong Bàn tròn kỳ này, câu chuyện nói về hiện tượng phản biện văn chương dưới những cái tên xa lạ, thậm chí là ẩn danh.
Xem thêm
Thi pháp của thơ ngắn – Trường hợp Mai Quỳnh Nam
Trong tất cả các thể loại văn học, thơ ca là nơi ưu tiên hàng đầu cho các hình thức ngắn gọn. Điều này không chỉ thể hiện ở độ dài khiêm tốn của các tập thơ mà còn nằm ở đặc trưng nội tại của thơ, vốn hướng đến sự cô đọng hơn so với các thể loại khác (như tiểu thuyết).
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 28: Minh bạch – từ chuyện nhỏ đến vấn đề lớn
Bàn tròn Văn học kỳ 28 không nhằm khơi gợi thị phi, càng không phải góp gậy góp đá “đánh hội đồng” một tổ chức nghề nghiệp mà chính “thư ký bàn tròn” này được vinh dự là hội viên.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 27: Công bằng trong xét giải - Từ quy chế đến thực tiễn
Giải thưởng văn học hằng năm của Hội Nhà văn Việt Nam đang đối diện một nghịch lý: quy chế một đằng, thực tế một nẻo.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” - Hành trình từ chiến trường đến nhân sinh
Lời ru bão giông của Trần Hóa không chỉ là một tập thơ, mà là bản hòa tấu của ký ức, trải nghiệm và những suy ngẫm về đời sống.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 26: Khi công bằng bị bỏ quên, im lặng trở thành câu trả lời
Bàn tròn Văn học kỳ này xin giới thiệu nội dung tóm lược của hai bức thư ngỏ – coi đó như một lời chất vấn trực diện, một thử thách đối với tính minh bạch và liêm chính của một cuộc thi văn chương quốc gia.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 25: Minh bạch là điều kiện sống còn của uy tín văn chương
Bàn tròn kỳ 25 chọn hai bài viết mới nhất của nhà văn Đặng Chương Ngạn về “thầy Uông” – thành viên Hội đồng Sơ khảo – như chất liệu để trao đổi thẳng thắn.
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 24: Trăm Ngàn câu hỏi, một chữ Minh bạch
Xin mời bạn đọc cùng ngồi lại, để lắng nghe, để bàn luận, và biết đâu, để cùng trả lời câu hỏi day dứt: Liệu văn chương Việt có thể đứng thẳng bằng phẩm giá của nó, hay sẽ mãi lẫn lộn trong những “trăm ngàn” trò chơi lợi ích?
Xem thêm
Bàn tròn kỳ 23: Giải thưởng, danh hiệu và chuẩn mực văn chương hôm nay
Nếu ở các kỳ trước, chúng ta chủ yếu xoay quanh truyện ngắn Trăm Ngàn, thì lần này, hai ý kiến góp mặt mở rộng vấn đề sang một góc nhìn gai góc hơn: chuyện “lợi ích nhóm” trong đời sống văn học – nghệ thuật.
Xem thêm
Những câu thơ thức “canh chừng lãng quên”
Với cảm hứng từ hai tứ thơ độc đáo – Cõng bạn đi chơi của Vương Cường và Dìu mẹ đi thăm mộ mình của Hồ Minh Tâm – bài viết của Bùi Sỹ Hoa (đăng trên Tạp chí Sông Lam, số 7/2025) đưa người đọc bước vào thế giới thơ về đề tài thương binh – liệt sĩ bằng một góc nhìn mới mẻ, giàu sức ám ảnh.
Xem thêm
Thơ Nguyễn Đức Hạnh, nỗi niềm thành mây trắng
Cánh buồm thao thức trân trọng giới thiệu bài viết của TS, nhà thơ, nhà phê bình Lê Thành Nghị - một bài viết công phu, giúp người đọc soi chiếu tập thơ Khát cháy từ nhiều chiều, để người đọc khám phá một “hiện thực khác” giàu thi vị.
Xem thêm